Phân tích tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao

Tôi đọc truyện ngắn Nam Cao trong một buổi trưa vắng người. Nỗi buồn cắn xé từng trang!

Những khuôn mặt dị dạng, méo mó “trồi lên dưới lớp bụi lầm than”, hụp lặn trong dòng sông sôi sục khổ đau, chới với những cánh tay kêu cứu. Khi tiếng khóc, cười ồn ào và những gương mặt ấy bị làn sóng bản năng dìm xuống tôi mới thấy Lão Hạc. Trông lão cô đơn trên dòng sông của mình, khuất sau cái bóng dềnh dàng, ngất ngưởng của Chí Phèo có một không hai!

Khó thấy Lão Hạc trong những đứa con nổi tiếng của Nam Cao. Lão hiền quá, thánh quá, thành không “độc”! Thế mà e lão được bố đẻ thương nhất. Không thương sao trong cơn lũ nghiệt ngã của dòng đời ngày ấy, Nam Cao đã bế lão lên để lão không bị dìm xuống, cuốn trôi như những đứa khác. Cho đến chết, lão không hề hoen ố, vẫn đẹp như ngọc. Qua lão, NGƯỜI đã thắng CON, bất chấp nghịch cảnh.

Tôi bỗng nhận ra... Lão Hạc thật quý!

Lão Hạc 2

Lặng lẽ, không dữ dội, lão trụ vững được nhờ tâm hồn nặng gấp trăm lần thể xác còm cõi của lão. Lão là hình ảnh ông bỗ Nam Cao, người trong đời thường tiết độ, giữ gìn, ăn không no, nói không lớn còn tinh anh tinh huyết trút cả trên, trang viết, để cho đời một thứ văn chương đầy ma lực cuốn hút bởi sự chân thật, sinh động, đầy chất người và tình người.

Những gì Nam Cao muốn nói trong 10 năm cầm bút ngắn ngủi gần đủ trong Lão Hạc - sống mòn, chết thảm, chết thể xác, chết tinh thần, cái đói, miếng ăn, nước mắt. Không những thế, Lão Hạc còn có cái vượt trội. Con người ở đó không chỉ KHỔ mà còn rất ĐẸP. Có thể nói Chí Phèo và Lão Hạc đều là đỉnh của ngọn núi Nam Cao, Chí Phèo, kẻ lưu manh độc đáo thì lão Hạc cũng là người lương thiện độc đáo! Đọc Lão Hạc, tôi bàng hoàng trước BI KỊCH NHÂN CÁCH! Muốn giữ nó, con người phải hi sinh đánh đổi. Tố cáo, phê phán guồng máy xã hội sẵn sàng nghiền nát con người (thực dân, phong kiến, hủ tục) chỉ là áo ngoài của Lão Hạc. Cứu lấy con người, bảo vệ nhân phẩm trong cơn lũ sẵn sàng cuốn phăng tất cả mới là “gan ruột” của truyện ngắn duy nhất không nằm dưới bóng “Chí Phèo”.

Ba hay bốn... nhân vật! Đó là tài Nam Cao xoay quanh một câu chuyện kể. Kể và ngẫm. Kể và chuyển hóa từ mình qua nhân vật, kể có mặt đến người khuất mặt, bên ngoài đến bên trong... Nhân vật nhòe lẫn vào nhau: người cha lão nông dân, ông giáo nghèo - tác giả, cậu vàng – kỉ niệm. Có khi không hình dáng cụ thể; bóng đứa con trĩu nặng trong từng hơi thở lão Hạc. Người ta mơ hồ, 200 đồng bạc vô tri mà thủ phạm. Mảnh vườn căn nhà tự đất thiêng...

Cũng như những bần cố nông khác, lão không có ruộng cày. Còn sức, đổi lấy bát cơm. Kiệt sức, đói! Điều đó đáng lẽ chưa xảy ra cho lão, người có trong tay mảnh vườn 3 sào, con chó béo và 25 đồng bạc vào lúc cùng kiệt. Thế mà lão ăn tựa kẻ thông cắc bạc: củ chuối, sung, rau má, ốc trai... Dưới mặt thiên hạ, lão còn đấy nhưng trong mắt lão, lão đã trắng tay! Mảnh vườn ư? Để cho con. Tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. 30 đồng bạc (cả tiền bán chó) là tiền ma chay của mình, khỏi phiền hàng xóm. Chỉ còn lão, sở hữu duy nhất của lão. Lão bắt lão ăn mòn ăn tự chế. Khi món ăn tự chế cạn, thân xác già nua vô dụng vẫn đòi hỏi sự tồn tại, lão tự kết thúc. Tinh thần lão mới kiên định làm sao! Như thành trì kiên cố xây bằng lòng tự trọng và tình thương. Đói khổ, đau đớn không khuất phục nổi. Nhà văn Kim Lân tặng cho lão từ bất khuất. Bất khuất trước kẻ thù còn dễ hiểu nhưng trước mình mới thật khó. Cuộc chiến thầm lặng ấy cũng đòi hỏi hy sinh nhưng có chết chỉ được mỉa: Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ...!

Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao viết Lão Hạc sau Chí Phèo, Trẻ con không được ăn thịt chó, Tư cách mõ, Một bữa no. Nhân vật trong các truyện đó từng ngã quỵ trước bản năng, miếng ăn, cái đói. Đói khiếp thật! Miếng ăn quý thật nhưng vì nó mà đánh mất tất cả thì quả đáng buồn. Suốt cuộc đời ngắn ngủi của Nam Cao (1917 - 1951), đói luôn ám ảnh. Ông từng chua chát: Trọn đời tôi, tôi chỉ lo chết đói. Nhưng thế bảo còn nghĩ đến cải to tát sao được. Thế mà ông nghĩ đấy, nghĩ đến nhân cách và tinh thần trước đói khổ. Miếng ăn thành thử thách. Nam Cao đã trộn lẫn hai cuộc đời thực từ làng Đại Hoàng quê ông sáng tạo lão Hạc, trao cho lão vũ khí tinh thần và không muốn làm lão thua cuộc. Lão đã “lớn” từ trang sách, trở thành biểu tượng của nhân cách.

Chưa bao giờ chất giọng Nam Cao nghiêm nghị và trân trọng thế! Xót mà không đau, buồn mà vẫn tin ở con người. Hạt giống “lương thiện” quằn quại mãi ở Chí Phèo hay đã thành cây cao ngẩng đầu trong Lão Hạc.

Nam Cao, “Nhà văn không biết khóc”t2) cho khốn khó đời mình lại rất dễ khóc cho đời người. Khó biết nhân vật khóc hay tác giả khóc, bởi mỗi chữ ứa lệ khi lão khóc. Khi rân rấn, khi ầng ậng nước, khi khóc thầm, khi òa vỡ. Nước mắt ẩn cả trong nụ cười: “cười đưa đã, cười nhạt, cười và ho sòng sọc, cười như mếu. Thật xúc động đọc được lão khóc con đi phu: Tôi chỉ còn biết khóc chứ còn biết làm sao được nữa? Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta đã chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu có còn là con tôi...”

Đoạn văn như bị xé từng mảnh về ngữ điệu này hay từng mảnh tim tơi tả của lão biến thành văn? Đứt nối, nghẹn ngào, tức tưởi. TÔI - NÓ - NGƯỜI TA, ranh giới ngả nghiêng! Nó cứ vuột khỏi “tôi” về phía “người ta” để trên trang giấy nỗi đau bất lực xé ruột.

Con lão ra đi để một kỷ niệm buồn - con chó mua về nuôi, định để đến lúc cưới vợ thì giết thịt. Lão gọi là cậu Vàng, bắt rận, tắm, cho ăn trong bát, chửi yêu, nói chuyện. Cậu thế chỗ đứa con, cùng lão chia sẻ niềm đau và hiu quạnh. Thế mà cuối cùng lão phải bán vì không còn gạo nuôi cậu. Bán cậu, lão nghĩ đến cái chết. Lão chết thì cậu tiêu đời. Để cậu đi trước còn được việc. Bán xong lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước... Mặt lão đột nhiên co rúm lại, những vết nhăn xô lại với nhau cái miệng móm mém của lão mếu như con nít, lão hu hu khóc... Tôi cùng khóc bởi chất người bộc lộ cao độ trong tiếng khóc ấy. Lão khóc vì trót lừa một con chó. Còn tôi khóc vì những giọt nước mắt chân thật, tinh khiết như rỉ ra từ đá của một con người! Phải là người “biết khóc” mới tả được đoạn ấy. ít chữ mà chứa chan nỗi đau cùng cái đẹp, thấm thìa tuổi già hạt lệ như sương, òa vỡ nhiều nỗi niềm. Cậu Vàng chết cũng đỡ tủi. Tự dưng tôi nhớ mẩu tin trên báo. Một ông cán bộ giàu rất cưng con chó của mình. Khi sống, mua 156 con bẹc giê cho nó bầu bạn. Khi chết trên 10 mâm cỗ, 3 xe ôtô và bạn bè đưa. Con chó ấy và cậu Vàng, con nào tốt phúc hơn?

Con đi phu, lão chết già nua. Bán cậu Vàng, lão chết hẳn. Lão chết từ đó, chẳng đợi khi tự tử bằng bả chó. Tôi tự hỏi tại sao lão không chọn cái chết đỡ đớn đau hơn? Thì ra lão quá nhạy cảm! Cái gì do lão, lão không quên. Lão không quên mình là người cha không tròn trách nhiệm nên chết để giữ vườn cho con. Lão không quên lão đã đưa cậu Vàng vào chỗ chết nên chọn cái chết bằng bả chó. Khó quên câu nói của lão: Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hóa kiếp cho nó để nó làm kiếp người... kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn!. Kiếp chó - kiếp người, ý thức ấy thật sâu cay! Tâm hồn lão cũng vậy, bản chất lương thiện tự sáng trong đói nghèo, ngu dốt. Không thể phân biệt đó là vẻ đẹp của người mẹ, người cha, nông dân vô học hay kẻ có học... Đó là vẻ đẹp CON NGƯỜI, sâu sắc, thăm thẳm!

Lão Hạc

Cái-chết dữ dội như con chó dại ấy là cái chết của một con người nặng yêu thương, trọng nghĩa tình. Nó khép lại thiên truyện nhưng không đè nặng tim tôi như cái chết Chí Phèo, bà cụ trong Một bữa no... Họ đã trở thành những bóng ma thơ thẩn trong các ngõ trăng lênh láng đói nghèo của làng Vũ Đại ngày ấy, tơi tả, nhàu nát khổ đau nhưng vẫn cháy bỏng khát vọng được sống như con người! Sống trong văn Nam Cao cực nhọc đấy nhưng vẫn có gì chân thực, cao quý. Miếng ăn, cái đói, nước mắt đều tự vượt mình để người đọc suy nghĩ. Trang viết Nam Cao không chỉ dừng lại ở tiếng kêu cứu đói, cứu khổ mà còn cứu lấy nhân cách, nhân phẩm bị chà đạp bởi đói khổ. Có thứ văn chương không viết cho một thời. Văn Nam Cao nằm trong trường hợp ấy. Soi vào bức tranh đời hôi hổi niềm đau, tạp lẫn xấu - đẹp vẫn thấy mình, thấy người trong đó. Lẽ sống cũng từ những cái không nguyên vẹn, tròn trịa yên lành ấy đi ra. Hiện thực Nam Cao không nặng phê phán, tố cáo mà khen ngợi ngẫm nghĩ. Bi kịch đời thường trở thành bi kịch vĩnh cửu bởi những điều vặt vãnh nhất cũng tự nói lên ý nghĩa về cuộc sống và con người. Người ta gọi ông là nhà văn hiện thực phê phán. Còn tôi muốn gọi ông là nhà văn hiện thực - nhân bản. Ông để lại những câu chuyện không có hậu mà hậu trong lòng thì dằng dặc, những nhân vật bất hủ nhào nặn bởi chất liệu cuộc đời và tấm lòng nhà văn có tài. Họ mãi cùng ông sống trên trang viết Nam Cao.

Gấp sách, thấm thía lời ông: Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn.

Giá mà học được chữ “có” của Nam Cao, tôi tin sẽ gặp những anh Chí, lão Hạc... bằng xương bằng thịt ở bất cứ mọi nơi. Liệu lúc ấy tâm đời có xúc động như khi gặp trên trang sách?

Viết bình luận