Phân tích bài Nhớ rừng của Thế Lữ

Theo lời kể của Xuân Diệu, ý định viết bài thơ về con hổ bị giam cầm đã đến với Thế Lữ - khi đó đang giữ chân chữa bản in cho báo Volonte Indochinoise - trong một lần ngồi nghỉ ở vườn Bách thảo Hà Nội, trên con đường đi làm hàng ngày từ nhà đến sở. Chỉ có điều này ra trước tiên trong đâu óc nhà thơ lại là hai câu thơ khác:

Chú nó trong nắng hề uể oải
Cũng không buồn thương nhớ cánh rừng xưa

Nhớ rừng

Kể tứ thơ này, giá vào một tay ai khác, giá nhập được với một tâm trạng chán chường nào khác, cũng dễ sinh ra những dòng viết kiêu sa mà buồn nản về sự tự hủy, tự tiêu tan trong hôm nay những gì ngày hôm qua vẫn được coi là hùng mạnh, về sự diệt vong của cái cao cả trong cái tầm thường... May sao, Thế Lữ đã không để mình trôi trên chiều hướng ấy. Tứ thơ chua chát nọ - ít nhất là trong lúc bấy giờ - đã không tìm thấy tiếng đồng vọng trong tâm hồn thi sĩ, và vì thế, trên cánh đồng của cảm xúc thơ, cái hạt nhỏ nhoi ấy đã không thể nảy mầm.

Nhà thơ bèn đảo lại tứ thơ: Hùm thiêng dù sa cơ nhưng vẫn không chịu nguôi quên thời oanh Liệt vẫn tha thiết theo đuổi giấc mộng ngàn, vẫn sống mãi trong tình thương nỗi nhớ cái thuở tung hoành phỉ chí của những ngày xưa. Và thế là một điệu tâm hồn đã được bắt trúng để bừng thức lên, lai láng cả một nguồn thi hứng. Cảnh rừng núi Lạng Sơn từng in biếc một tuổi thơ, không khí cách mạng một hai năm trước đây còn sôi động, dư vang những ngày hoạt động Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Hải Phòng, và cả cái giai điệu buồn tẻ trong cuộc sống của những thanh niên tiểu tư sản ở những năm thoái trào cách mạng... Tất cả những cái đó chắc hẳn đã xôn xao hiện về trong Thế Lữ, và thăng hoa lên, dưới làn chớp huy hoàng của niềm cảm hứng. Bài thơ, có lẽ vì thế mà được hoàn thành nhanh chóng lạ thường: chỉ trong một buổi sáng.

*
* *

Từ bỏ con đường diễn tả một “cuộc đời con” bị đè nát bởi những “giấc mơ con”, để cho xuất hiện ở trung tâm tác phẩm một tính cách dữ dội, lớn lao, đầy dằn vặt và khát vọng. Nhớ rừng ít nhiều đã hòa vào cái mạch bi tráng đã từng đem lại cho thi ca biết bao danh tác.

Lẽ dĩ nhiên, không ai dám đặt con hổ của bài thơ bên cạnh những tầm cỡ như Prômẽtê bị xiềng, hay Hamlet, hay Người tù xứ Capcađư. Nhớ rừng mới chỉ là tiếng nói đau đớn của một kẻ đã mất hết niềm tin được tự do, mất hết ước mơ chiến thắng. Con hổ ở đây không thể làm được gì hơn là nằm dài trong cũi sát, để trông ngày tháng dần qua, và nói về cái thuở oanh liệt vẫy vùng như những tháng ngày không bao giờ trở lại. Cũng không có trong nó cái khát khao tương truyền đã được người anh hùng Nguyễn Hữu Cầu diễn tả trong những vần thơ lồng lộng ngợp sau:

Bay thẳng cánh, muôn trùng Tiêu, Hán
Phá vòng vây, hạn với kim ô

Có lẽ sẽ không là khiên cưỡng nếu nói rằng Nhớ rừng, với hình tượng con hổ nằm dài ấy, đã tạo nên tư thế của những con người đã thôi nghĩ đến hành động, những con người mà nhiệt tình làm cách mạng, mà hoài bão muốn góp phần mình vào một sự đổi thay đã không còn.

Thế nhưng, con hổ, hình tượng trung tâm của bài thơ, dù có chịu mất tự do nhưng vẫn không chịu mất đi niềm kiêu hãnh. Trong khổ đau, trong cảnh tủ hàm trong nỗi nhục nhàn, nó vẫn biết tự phân biệt mình với những kẻ đã bị hoàn cảnh tầm thường đồng hóa đến cả tinh thần, ở đây, vấn đề không phải là xem xét “tác phong quần chúng'1 của con hổ, phê bình nó “không có một chút ưu ái gì đối với những con vật như những con gấu, con báo cùng sô phận như nó và năm sát ngay cạnh chuồng nó”, như ai đó đã bàn. Ở đây, cũng như ở Chim trong lồng, ơ ca Prômêtê bị xiềng và Hmnỉet nữa, sự đối lập giữa hai hạng người, hai cách sống và cách thức nghệ thuật vẫn thường dùng để làm nối bật lên cái kích thước cao cả và tô đậm thêm cảm hứng đầy tính bi kịch của một tâm hồn thà bị khổ đau chứ nhất quyết không chịu hạ mình trong bất hạnh.
Thế Lữ, ít nhất là một lần trong một đời thơ, đã cố gắng xây dựng cho mình một hình tượng thơ như thế. Con hổ ở Nhớ rừng biết mình chiến bại nhưng vẫn chưa chịu làm tôi tớ cho sự tầm thường, giả dối của cảnh ngục tù. Nó bất lực, nhưng không hoàn toàn khuất phục và thỏa hiệp. Nó vẫn ghét những cảnh không đời nào thay đổi, nghĩa là còn ước ao những sự đổi thay. Bị giam thân trong lồng sắt chật, nó vẫn tha thiết vươn tới những chân trời rộng rãi của không gian với giấc mộng ngàn to lớn, và của thời gian, với niềm uất hận ngàn thâu. Bài thơ, cho tới cùng, vẫn thê hiện một tinh thần chối từ thực tại, dẫu mới chỉ là sự chối từ trong mộng tưởng mà thôi.

Nhớ rừng 2

Sự xung đột chống đối quyết liệt, thường xuyên, không thể dung hòa giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại vật với nội tâm, giữa thấp hèn và cao thượng chính là cơ sở để kết cấu nên toàn bộ bài thơ. Có cảm giác như nghe được từ Nhớ rừng một bản xônát bốn chương với sự luân chuyển, đan xen của hai nhạc đề tương phản, trong đó, chủ đề chính, chủ đề Nhớ rừng bỗng đột ngột chuyền vút lên sau những nốt nhạc đã ngày càng chậm chạp, buồn chán ở chương đầu, và cứ vang to mãi, dào dạt mãi đến cao trào với tất cả niềm phấn hứng của tâm linh để rồi chợt tắt lặng đi nặng nề, uất nghẹn. Và cuối cùng, trong sự quật khởi, chủ đề chính lại quay trở lại, không còn hùng tráng được như trên, nhưng thiết tha, nhưng nuối tiếc. Bài thơ kết thúc trong tiếng gọi bi thiết với rừng già của một kẻ biết mình đã sắp phải chấm dứt cuộc vượt tù.

Viết bình luận