Phân tích lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao

Trong các nhà văn hiện đại Việt Nam, Nam Cao là một trong những cây bút đã để lại cho đời nhiều nhân vật sẽ còn sống mãi. Lão Hạc (truyện Lão Hạc) là một trong những nhân vật như thế.

Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ, cùng quẫn, nhưng không bị biến chất như Chí Phèo, mà trái lại có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao thượng.

Lão sống một thân một mình trong tuổi già cô đơn vất vả. Lão chỉ có đứa con trai duy nhất để nương tựa thì anh ta lại phẫn chí bỏ đi phu đồn điền cao su - “Cao su đi dễ khó về”. Lão Hạc đành phải làm thuê, làm mướn kiếm ăn lần hồi, đồng thời cố nhặt nhạnh, dành dụm cho con.

Căn nhà Lão Hạc

Nhưng một trận ốm đã làm cho lão trở nên tay trắng. Sức lão yếu dần những công việc nặng không làm được nữa, việc nhẹ thì đàn bà tranh hết. Lão Hạc không có việc rồi lại bão, hoa màu trên cánh vườn bị phá sạch sành sanh. Gạo cứ kém dần. Một lão với một con chó, mỗi ngày ba hào gạo, mà ra sự vẫn còn đói deo đói dắt... Cuối cùng, lão phải ăn khoai, rồi khoai cũng hết. Bắt đầu từ đây, Lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc.

Thực ra tình cảnh lão Hạc đã làm gì bế tắc đến thế. Lão còn mảnh vườn đó, con chó Vàng đó, có thể bán đi mà tiêu. Nhưng lão sống vì con chứ đâu phải vì mình. Điều này mấy ai hiểu cho lão, nhưng vừa bày tỏ với vợ đã bị gạt phắt ngay:

Cho lão chết! Ai bảo lão cố tiền mà chịu khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Chính con mình cùng đói...

Còn Binh Tư, một gã lưu manh chuyên đánh bả chó thì lại khoái chí khi thấy lão Hạc đến xin một ít bả. Hắn tưởng đâu lão Hạc đói quá hóa liều cũng xoay ra trộm cắp như hắn. Hắn bĩu môi: Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu. Cả đến ông giáo hiểu lão hơn cả mà cũng đâm ra nghi ngờ.

Người ta chỉ hiểu lão khi lão chết rồi. Lão tự sát bằng nắm bả chó của Binh Tư. Lão chết nhưng còn sống trong lòng người như một tấm lòng đạo đức hiếm có.

Hiếm có người cha nào yêu thương con như lão Hạc. Nghèo khó nhưng lúc nào cũng nghĩ đến bổn phận làm cha, lo làm tròn bổn phận ấy, dẫu có phải chịu đói, chịu rét và chết bi thảm. Hình ảnh đứa con trai, nỗi lo chu tất cho con luôn luôn ám ảnh, dằn vặt tâm trí lão. Hồi anh ta còn ở nhà, lão không cho anh ta bán mảnh vườn để cưới vợ cũng là xuất phát từ điều hơn lẽ thiệt của bậc làm cha. Thực ra lão dằn lòng lắm, bởi đạo làm cha là phải lo cho con một người vợ, một căn nhà, một tổ ấm gia đình. Song tình cảm của lão thì lo chưa chu toàn được. Anh con trai phẫn chí ra đi, ngày về khó hẹn, lão lại đã già. Đã bao lần lão ngỏ tâm sự này với ông giáo: Tiền hoa lợi trong vườn, tiền bán con chó Vàng là 'tiền mà người cha phải để cho con. Nếu không, không phải “đạo”. Đã bao lần lão lẩm bẩm tính... tiền bán vườn của con... với suy nghĩ bán là ta có ý giữ cho nó, chứ có phải giữ để ta ăn đâu!... Ta bán vườn của nó, cũng nên để ra cho nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn... Lão đã làm y như thế. Thà ăn củ khoai, củ ráy... chứ lão không ăn vào tiền của con, không chịu bán mảnh vườn của con. Bao nhiêu tiền nhặt nhạnh được từ mảnh vườn, lão gửi tất cả nhờ ông giáo giữ hộ. Rồi lão chết để không bao giờ phải đụng đến! ôi! Lão Hạc, bên ngoài “thì có vẻ tiều tụy, và gàn dở như vậy mà thật giàu tình, nặng nghĩa. Mà đâu phải chỉ có đối với con của lão. Tấm lòng nhân hậu của lão còn thể hiện ở tình rất nặng đối với chó Vàng của lão mà lão gọi là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Cứ xem cái cách lão nựng con chó: À không! À không!... Cậu Vàng của ông ngoan lắm! Ông không cho giết... ông để cậu Vàng ông nuôi..., hay cái vẻ mặt vô cùng đau khổ của lão khi kể cho ông giáo nghe lão đã bán con chó: Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít, đủ thấy lão thương xót con chó và thấy mình có tội như thế nào khi phải bán nó đi.

Chân thật, chất phác, đôn hậu, tràn đầy tình thương và trách nhiệm, lão Hạc cũng thật giàu lòng tự trọng. Đối với ông giáo, người lão tin tưởng và quý trọng đến thế, lão cũng vẫn giữ ý để khỏi bị coi thường. Lão nói, lão phàn nàn, “kiếp người như lão cũng khốn khổ như kiếp chó” đấy, nhưng khi ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè tươi, lão đã từ chối. Lão dứt khoát “từ chối tất cả”. Khi ông giáo giấu vợ, thỉnh thoảng ngấm ngầm giúp đỡ lão một chút gì, lão từ chối “một cách gần như hách dịch”. Rồi lão cứ cố ý xa ông giáo dần dần vì không muốn mang tiếng lợi dụng, là vì tự trọng.

Cuối cùng thì lão Hạc chết. Chủ động tìm đến cái chết, một cái chết bi thảm, khốc liệt nhưng là cái chết của một con người cao quý. Bởi qua cái chết này, tất cả những phẩm giá cao đẹp của lão ánh lên, chiếu sáng thăm thẳm vào lòng người.

Thăm làng Vũ Đại

Gần đây người ta dựng phim về các nhân vật của Nam Cao: phim Làng Vũ Đại ngày ấy. Nhà văn Kim Lân được giao đóng vai lão Hạc. Kim Lân đã nghiền ngẫm kỹ nhân vật của mình. Ông nói: “Lão Hạc không chỉ là một người nghèo, đó còn là một người có nhân cách, tự trọng và bất khuất”. Chúng ta hoàn toàn đồng ý với kim Lân. Chúng ta còn thấy rằng con người ấy với những phẩm chất ấy đã cho ta những suy nghĩ sâu sắc. Cái chết của lão Hạc để lại cho chúng ta cùng với nỗi xót thương vô hạn, nhiều bài học quý. Bài học sâu sắc nhất là giữa người với người, phải có trách nhiệm với nhau hơn, phải tin tưởng ở con người và cuộc đời. Và phải biết căm ghét những xã hội bất công, những thế lực độc ác đã vùi dập đày đọa những người như lão Hạc.

Vợ ông giáo từng nói về lão Hạc: Cho lão chết! ? Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ! Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ!

Nhưng thực ra sống LÀM NGƯỜI, có những điều dù khổ, dù phải tự làm khổ mình, cũng phải giữ. Chết cũng giữ! Đó là những điều thuộc về đạo lí, nhân cách làm người như lão Hạc đã giữ. Cho nên đã hơn 50 năm (truyện Lão Hạc ra đời năm 1943), lão Hạc vẫn sống với chúng ta, sẽ còn sống cùng với chúng ta. Và dẫu cho cuộc đời này còn nhiều nỗi đáng buồn nhưng có những con người như lão Hạc thì cuộc đời ấy “chưa hẳn đã đáng buồn”.

Viết bình luận