Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới cùa Xuân Diệu

Đây mùa thu tới là bài thơ viết về đề tài quen thuộc: mùa thu. Bài thơ vẫn dùng nhiều thi liệu truyền thống nhưng tác giả đã gửi vào đó những cảm xúc mới, đồng thời có nhiều cách tân táo bạo trong xử lí thi liệu, trong diễn đạt... Chính vì vậy, bài thơ vẫn được xem là một thành công xuất sắc, tiêu biểu cho hồn thơ của Xuân Diệu.

Kết cấu không gian trong bài thơ rất đặc sắc: khổ 1 là hồ thu, khổ 2 là vườn thu, khổ 3 và 4 là đất trời thu. Kết cấu đó xoáy và dụng ý nghệ thuật của Xuân Diệu: xây dựng một hình tượng thu - mĩ nhân, mùa thu hóa thành hình tượng một thục nữ mĩ miều, tha thướt và u buồn; đẹp một vẻ đẹp lãng mạn, cao sang. Nàng thu của Xuân Diệu đang nhón gót trên đường biên của phút giao mùa, từ hạ sang thu.

đây mùa thu tới

Khổ thơ đầu là cảnh hồ thu. Bài thơ mở đầu bằng hồ, hay đúng hơn là bằng hình ảnh liễu bên hồ:

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc huồn buông xuống lệ ngàn hàng.

Thật lạ, liễu từng thướt tha trong Truyện Kiều:

Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiểu thướt tha.

Liễu của Xuân Diệu gay gắt hơn: chịu tang - một cảm nhận bất ngờ, đẫm màu tang tóc. Bất ngờ nhưng vẫn đúng. Lá liễu được so sánh, biến hóa: vừa đổ xuống song song như tóc giai nhân, vừa tuôn chảy như dòng lệ ướt. Để nhấn mạnh nỗi tang tóc, Xuân Diệu còn đưa ra từ láy âm đìu hiu, khiến câu thơ càng bị ru thêm vào một âm điệu thê lương, chua xót.

Với hai câu tiếp theo, nàng liễu trở thành linh hồn của mùa thu: Đây mùa thu tới, mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Điệp ngữ mùa thu tới là tiếng reo hay tiếng thở dài? Đó là cả hai: trong tiếng thở dài có tiếng reo thầm, vì mùa thu đâu chỉ mang tới cái buồn lạnh, mà còn chứa đựng cả cái xôn xao của sự sống. Đến câu cuối, mùa thu hiện hình cụ thể hơn: Với áo mơ phai dệt lá vàng. Hình ảnh thật diễm ảo: mùa thu nhuộm vàng cả đất trời, hay đất trời dệt áo vàng khoác lên nàng thu? Nàng thu trở nên đẹp lộng lẫy, sang trọng. Nhưng tinh ý, ta sẽ nhận ra đó là vẻ đẹp sắp tàn, khiến tiếng reo trong câu thơ ngầm chứa sự thảng thốt, lo âu. Cái đẹp xao xác buồn này sẽ định hướng cảm xúc toàn bài, cũng là một khuynh hướng thẩm mĩ quen thuộc của Thơ mới.

Với khổ thơ thứ hai, không gian thu dường như bị thắt lại nơi vườn thu:

Han một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh Những luồng run rẩy rung rinh lá Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Chỉ một không gian vườn bé hẹp. Xuân Diệu đã diễn đạt một điều ghê gớm: mùa thu lạnh buốt đang bòn rút sự sống của cỏ cây hoa lá, tức là của tạo hóa. Ở câu hai có một từ mới: rũa, đồng nghĩa với từ lấn (màu 199 đỏ lấn màu xanh), nhưng nếu đổi sang từ lấn thì giá trị câu thơ sẽ giảm đi rất nhiều. Lấn gợi lên một hiện tượng thiên nhiên, thiên về miêu tả thực tế. Rủa thiên về biểu hiện nội tâm, nên mạnh hơn, nhói buốt hơn, tạo một cảm nhận bỏng rát, đau đớn trước sự tàn phá nghiệt ngã của thiên nhiên. Nguyễn Gia Thiều cũng từng có một câu thơ mang ý dữ dội như thế: Sương như búa bổ mòn gốc liễu (Cung oán ngâm khúc).

Song đặc sắc nhất là hình ảnh gió và cành cây. Ngọn gió thổi ra từ cổ thi từng rất buồn: Cần trúc lơ pliơ gió hắt hiu (Thu vịnh - Nguyễn Khuyến), nhưng là cái buồn trong tiếng thở dài yếu ớt. Gió Xuân Diệu run bần bật bởi bốn phụ âm r (run rẩy, rung rinh) làm câu thơ buốt đến tê tái. Vũ Quần Phương quả là tinh tế khi cho rằng hiệu quả câu thơ không chỉ tả gió mà còn gọi rét. Hình ảnh cành cây trong ca dao cũng rất đắm say: Gió đưa cành trúc la đà. Nguyễn Khuyến đã ghê, gọt nhỏ cái cành trong ca dao thành cái cần trong Thu vịnh'. Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Xuân Diệu lại đẩy tiếp cần của Nguyễn Khuyến thành nhánh và xương đầy chất tạo hình, gây ấn tượng thị giác rất mạnh: chạm khắc vào trời thu hình ảnh cây cối quắt queo như dẻ xương gầy. Mùa thu héo quắt trong hồn thơ Xuân Diệu.

vội vàng 3

Nếu khổ thơ thứ nhất buồn, khổ thứ hai buốt, thì khổ thơ thứ ba kết hợp hai cảm giác ấy và đẩy tới một trạng thái u uất hơn, trùm lên cả đất trời rộng lớn. Điều độc đáo là Xuân Diệu xen kẽ đất và trời thành những cặp đôi song song đi suốt hai khổ thơ cuối.

Trước hết là bầu trời, có trăng mây và chấp chới cánh chim. Câu thơ tả trăng có một âm điệu rất hay: Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ. Câu chữ và hình ảnh ngồ ngộ, ngơ ngác thế nào! Sao lại thỉnh thoảng và tự ngẩn ngơ? Hoài Thanh bắt rất tinh đặc điểm này của Xuân Diệu: Ngay lời văn của Xuân Diệu cũng có vẻ chơi vơi. Xuân Diệu viết văn tựa như trẻ con học nói hay người ngoại quốc mới võ vẽ tiếng Nam. Câu văn tuồng bỡ ngỡ. Nhưng cái dáng bỡ ngỡ ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người. Quả thật, đọc kĩ mới thấy câu thơ Xuân Diệu rất tinh và rất nghịch, vì nó đột ngột bắt quả tang một trạng thái mơ màng, ngẩn ngơ của nàng trăng. Có điều, Xuân Diệu bắt quả tang thiên nhiên hay chính cõi lòng mình?

Từ cánh chim trốn rét, Xuân Diệu chợt hốt hoảng khi nhận ra điều đáng sợ đang xảy ra giữa trời đất: Khí trời u uất hận chia li. Nỗi đau li tán dằn xuống trong thanh trắc của chữ hận như tiếng nấc trước một vũ trụ dường như trông rỗng.

Trời đã buồn, mặt đất còn buồn hơn. Trong không gian vắng người, vắng đò, chim di tản, có một câu thơ thật hoang lạnh:

Đã nghe rét mướt luồn trong gió.

Từ luồn thật tinh điệu. Đúng là cái rét đang tàng hình trong tiết chớm thu, mà chỉ người nghệ sĩ - vốn là nhà bác học của các giác quan mới phát hiện ra được. Nhưng hình ảnh con người đột ngột xuất hiện trong hai câu kết mới là cái nấc cao nhất của cảm giác thu Xuân Diệu:

Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gỉ?

Hình tượng nàng thu bộc lộ trọn vẹn trong bóng dáng thiếu nữ. Tất cả cảm giác thu quy tụ vào đây. Thơ Xuân Diệu dẫu có nói trời mây non nước gì cuối cùng cũng kết lại nơi con người, nơi tuổi trẻ, nơi những thiếu nữ vừa chạm bước vào ngưỡng cửa cuộc đời, vừa ngơ ngác, vừa khao khát yêu đương, khao khát giao cảm với cuộc đời rộng lớn. Hai câu thơ man mác trong trạng thái mơ hồ không xác định, rất hợp với tâm hồn bâng khuâng của lứa tuổi này; con số không xác định (ít nhiều), nỗi buồn thầm lặng không duyên cớ (buồn không nói).

Bức tranh thu của Xuân Diệu là sự thám hiểm phút chuyển mình cũ mà mới mẻ của thời gian từ hè sang thu, từ nóng sang lạnh bằng những giác quan tinh tế, tạo những rung động thẩm mĩ thấm thìa. Đó là một cống hiến quý báu của thi sĩ trong việc khám phá thiên nhiên bằng nghệ thuật thơ ca. Linh hồn bức tranh là một tình thu buồn vắng cô đơn. Điều này do hai lẽ. Thứ nhất, do trạng thái riêng của mùa thu: không ồn ào như hạ, tê tái như đông, tươi tắn như xuân mà êm lắng u sầu một cách mơ màng, dễ gợi hồn thơ hướng nội. Thứ hai, nỗi buồn thu gặp nỗi sầu tuổi trẻ của thời vong quốc, ngơ ngác trước ngưỡng cửa vào đời, càng khát khao nhập vào đời càng bị đẩy vào cô đơn. Cái lạnh thu là cái lạnh của linh hồn cô đơn đang thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau (Xuân Diệu). Giá trị nhân bản của bài thơ là ở nỗi buồn trong sáng ấy.

Viết bình luận