Hãy phân tích bài thơ Ông đồ - Vũ Đình Liên

Ngồi cạnh bài thơ Ông đồ, bỗng một câu ca xa xôi chợt đến: Còn duyên kẻ đón người đưa... Liệu đấy có phải là nhân câu chuyện còn duyên - hết duyên hay không? Có cái duyên tự mình để mất, lại có cái duyên phận, cái duyên do thời thế đem cho, rồi cũng do thời thế cướp mất của ông đồ nho già làm nghề viết chữ. Cái ngày chữ Nho còn được trọng vọng, mỗi độ xuân về, rộn ràng bao người thuê viết. Thế rồi mỗi năm, mỗi vắng, công việc xem chừng uể oải, rời rạc, cầm chừng, khi có khi không. Cuối cùng thì tắt hẳn, ông đồ trở thành kẻ ngồi không, tuy vẫn ngồi đấy mà không cũ hay, như là không có mặt, là thừa, vô ích, không ai cần đến. Ông đồ lúi húi ngồi đấy, ngắm thấu phận mình. Giấy đỏ buồn, nghiên sầu, lá vàng rơi, mưa bụi bay cùng đồng lõa, phụ họa vào cái nghịch cảnh buồn thiu đó. Không còn một chút khả năng liên hệ với chung quanh, ông là một thực thể cô đơn và đầy mặc cảm...

Ông đồ 2

Có phải nhà thơ cũng như đám đông thời thế đã từng có lúc vô tình trước cánh ngộ của ông đồ già kia, để đến tận bây giờ bỗng giật mình nhận ra một khoảng vắng. Ông già đã từ giã cõi đời hay từ giã cái nghề này? Đằng nào thì cũng thế, duyên phận chỉ cho đến thế thôi. Các câu thơ ngũ ngôn thông suốt, đan xen một trắc, một bằng tuần tự, lên xuống đều đặn, không rồi sụt, không gây xốc, tạo ra một âm hưởng lặng lẽ, u hoài, xa vắng, ít nhiều xa xót...

Viết thuê là một cảnh ngộ mưu sinh, kể ra đáng thương. Nhưng chuyện đó không hề quan trọng và không có ý nghĩa gì lắm trong bài thơ này. Ở đây, nhà thơ lặng ngẫm về một nét văn hóa cổ truyền đang bị tàn phai. Người thuê viết, người viết thuê như cùng tình nguyện tham gia vào một trò chơi văn hóa. Người viết thỏa thuê trong cái thú chơi chữ, viết như một cuộc chơi, một nhu cầu giao cảm với con người và trời đất mỗi độ xuân về. Cả người viết lẫn người thuê viết đều biết trọng cõi tình thần, biết hướng đời sống vào những nét đẹp thanh cao. Còn biết chơi chữ, quý chữ, quý người cho chữ là còn biết trọng cái thiên lương, là muốn sống sao cho đẹp. Ấy thế mà nền nho học đã đến một thời tàn. Sự thắng thế của văn minh Tây học đẩy nhanh những người của thời Nho học vào một vị thế của kẻ ngoài cuộc, mang một nỗi mặc cảm lạc điệu, lạc dòng, và một tâm trạng bùi ngùi, tiếc nuối.

Với ai không biết, nhưng quả tim nhà thơ đã đọc ra được rằng: trong cuộc chuyển giao thời vận này có những cái đẹp bị mất theo mà lẽ ra không đáng tội mất, lẽ ra cần được giữ, được sống mãi với đất nước này. Không phải ngẫu nhiên để nói về những người vừa đó của một thời cũng mới vừa qua, nhà thơ gọi ra bằng một chữ hồn (Hồn ở đâu bây giờ?). Đây là cách gọi rất Việt Nam đã đành, mà còn chỉ ra được một cách chính xác đến lạ lùng những cái gì đã đành, mà còn chỉ ra được một cách chính xác đến lạ lùng những cái gì đã qua mà không mất, mà còn mãi. Hồn là bất tử, là không bao giờ mất, mà còn chỉ có tán, đi về trên cõi dương gian, vẻ đẹp tâm hồn Việt, văn hóa Việt chỉ có thăng trầm, chứ không bao giờ mất cả. Bài thơ đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi, nên nó còn tha thiết mãi.

Ông đồ

Có nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng: trong thế kỉ XX, văn hóa Việt Nam đã để hai lần lỡ nhịp: lần một từ chối Hán học, và lần hai từ chối Tây học, nên bị thiệt rất nhiều. Đây là câu chuyện thời thế, nỗi buồn thời thế. Vậy thì hai câu thơ: Những người muôn năm cũ - Hồn ở đâu bây giời vẫn còn là một ám ảnh day dứt hôm nay...

Viết bình luận