Em hiểu chủ nghĩa nhân vãn trong văn học như thế nào? Phân tích một số dẫn chứng lâ'y trong hai đoạn trích của tác phẩm Hăm-lét, Rô-mê-ô và Giu-li-ét để làm sáng tỏ về chủ nghĩa nhân văn.
Con người! Hai tiếng ấy vang lên mới đẹp làm sao! Thế mà trước đây nhiều thế lực hắc ám, tàn bạo đã lợi dụng danh nghĩa nhà thờ Cơ Đốc giáo và triết học kinh viện để chà đạp thô bạo lên quyền sống, quyền làm người của con người. Vì thế, ở thế kỉ XIV - XV, ngọn gió nhân văn chủ nghĩa đã bừng lên trong văn học nước Ý và sau đó lại thổi một luồng sinh khí mới sang văn học nhiều nước châu Âu. Mãi đến thế kỉ XVI, nền văn học Anh mới thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn mà đỉnh cao là Uy-li-am sếch-xpia (1564 - 1616).
Vậy thế nào là chủ nghĩa nhân văn trong văn học? Chủ nghĩa nhân văn đã được thể hiện như thế nào qua hai vở bi kịch Rô-mê-ô và Giu-li-ét và Hăm-lét? Chủ nghĩa nhân văn là một trào lưu tư tưởng tiến bộ, tôn trọng và đề cao con người trong cuộc sống trần thế. Nó đối lập với triết học kinh viện và lề luật cứng nhắc của nhà thờ Cơ Đốc giáo. Đây là một hệ tư tưởng chính thống của thời đại, là hệ tư tưởng duy tâm khuyên con người tin vào những thế lực siêu nhiên, huyền bí nhằm tìm hạnh phúc ở chốn thiên đàng. Các học giả đã nhận thấy đây là những điều thiếu tính khoa học nên họ đã nghiên cứu và phát hiện nền văn minh huy hoàng của Huy Lạp, La Mã cổ đại. Phương Tây bàng hoàng và kinh ngạc trước những di sản văn hóa thời cổ đại ... Trong những cuốn sách viết tay còn cứu vớt được sau khi nền văn minh Bydanxơ đã sụp đổ, trong những pho tượng thời cổ đại khai quật được trong những đông hoang tàn ở La Mã, người ta đã thấy một thế giới mới lạ... đó là thời cổ đại Hi Lạp, những hình thức chói lòa của nó đánh tan những bóng ma thời trung cổ. Nhận thức rõ, sở dĩ cha ông người Hi Lạp sáng tạo được một nền vãn minh như vậy là vì họ sống trong một xã hội tự do, dân chủ, quyền sống, quyền làm người được tôn trọng.
Ở thế kỉ XIV - XV, nước Ý đã mọc lên nhiều đô thị nhờ kinh tế công thương nghiệp phát triển, tầng lớp thị dân giàu có nên họ ý thức về quyền lợi, vai trò của cá nhân mình. Đây là tiền đề, là xuất phát điểm của ngọn gió nhân văn chủ nghĩa. Chủ nghĩa nhân văn trong nền vãn nghệ Ý đạt những thành tựu rực rỡ ở các lĩnh vực như hội họa, kiến trúc, điêu khắc... Ngọn cờ đầu của chủ nghĩa nhân văn là Đan-tê - tác giả của kiệt tác Thần khúc.
Sang thế kỉ XV - XVI, ngọn gió nhân văn thổi một luồng sinh khí mới vào nền văn nghệ của nước Tây Âu và Trung Âu, nước Anh bước vào thời đại Phục Hưng muộn hơn so với nước Ý, Pháp nhưng nền văn nghệ Anh, nhất là thơ ca, kịch đã phát triển rất nhanh và mạnh, đỉnh cao nhất là nhà viết kịch Uy-li-am sếch-xpia. Bố của Uy-li-am sếch- xpia là một thương nhân buôn bán đồ len khá giả. về sau, gia đình sa sút nên ông phải nghỉ học, đi làm việc. Đến Luân Đôn, ông đã từng giữ ngựa, nhắc vở, diễn viên rồi sau đó mới cải biên, nhuận sẩc và sáng tác hàng loạt vở kịch có giá trị lớn. Với ba mươi tám vở kịch gồm kịch lịch sử, hài kịch, bĩ kịch, ông đã trở thành một nhà viết kịch thiên tài. ở hai vở kịch Rô-mề-ô và Giu-li-ét, Hăm-lét, sếch-xpia đã đấu tranh cho sự tự do của con người trong hạnh phúc yêu đương và trong hành động dũng cảm chống lại cái ác.
Rô-mê-ô và Giu-li-ét được sáng tác vào khoảng năm 1594, 1595; là một bản tình ca bất tử, ca ngợi sức mạnh của tình yêu đã chiến thắng oán thù và những thế lực xấu xa, đen tối trong xã hội. Bối cảnh câu chuyện xảy ra tại thị trấn Vê-rô-na ở Ý. Nơi có hai gia đình thế phiệt trâm anh là Ca-piu-lét và Môn-ta-ghiu từng có mối hiềm thù sâu xa đến nỗi những người đầy tớ của họ gặp nhau ngoài đường cũng đánh và giết nhau bằng gươm. Đây chính là dấu vết của sự hiềm thù trung cổ còn sót lại. Rô-mê-ô vốn là con trai của gia đình Môn-ta-ghiu, yêu nàng Rô-sa- lin- một người con gái mà chàng cho rằng đẹp nhất cõi trần gian. Nhưng tiếc thay, dòng suối tình yêu của chàng không được nàng Rô-sa- lin đáp trả. Chàng đâm ra thất vọng. Nhưng một người bạn tốt bụng của chàng hứa là sẽ giới thiệu cho chàng người con gái xinh đẹp hơn, huyền diệu hơn Rô-sa-lin gấp bội.
Thế rồi, dịp đó đã đến. Bằng cách ngụy trang một chiếc mặt nạ, Rô-mê-ô đã lọt được vào một bữa tiệc ở nhà Ca-piu-lét - một bữa tiệc mời tất cả cư dân trong thị trấn Vê-rô-na, trừ những người thuộc dòng họ Môn-ta-ghiu. Thông qua ánh mắt nụ cười, tiếng sét ái tình của chàng và Giu-li-ét đã bộc phát. Vì giết một người cháu họ của Giu-li-ét, Rô-mê-ô đã bị đày đến một nơi cách xa ngàn dặm. Trước khi chịu án đi đày, chàng đã nhiều lần vượt qua bức tường cao của nhà Ca-piu-lét để được gặp Giu-li-ét. Đó là những đêm trăng thần tiên tô điểm thêm cho tình yêu của họ.
Xa cách Rô-mê-ô, Giu-li-ét bị gia đình ép gả cho Paris, một người giàu có mà nàng không hề yêu. Nàng đã bí mật tìm đến nhà một linh mục để nhờ vị linh mục này bày cho nàng cách để thực hiện tình yêu chung thủy với Rô-mê-ô. Trước đêm lễ cưới với Pa-rít, nàng đã uống hai viên thuốc ngủ để giả vờ chết trong bốn mươi hai giờ đồng hồ. Người ta đem nàng ra nhà mồ. Tại Man-tua, khi sứ giả của vị linh mục chưa đến thì Rô-mê-ô đã hay được hung tin, liền vội vã trở về Vê-rô-na bằng con đường tắt. Khi đến nhà mồ, chàng đã giết chết Pa-rít và uống thuốc độc tự tử. Chàng vừa ngã xuống thì Giu-lu-ét tỉnh dậy. Thấy Rô-mê-ô đã trở thành người thiên cổ, Giu-li-ét bàng hoàng sửng sốt và cũng tự sát. Người đầy tớ của Pa-rít chạy đi loan tin cho mọi người biết. Vị hoàng tử và cả hai dòng họ Môn-ta-ghiu và Ca-piu-lét đều kéo đến và vô cùng xót xa. Dòng họ Ca-piu-lét hứa sẽ xây dựng một tượng đài cho Giu-li-ét và dòng họ Môn-ta-ghiu cũng vậy.
Rõ ràng là Rô-mê-ô và Giu-li-ét chết nhưng lí tưởng và sự tự do trong hạnh phúc yêu đương của họ vẫn còn tồn tại mãi mãi. Mối tình giữa Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã chứng minh sức mạnh của tình yêu. Yêu Giu-li-ét, Rô-mê-ô đã làm tất cả những điều phi thường để mong sao Giu-li-ét có được hạnh phúc. Chàng đã vượt qua bao bức tường cao của nhà Ca-piu-lét, tức đã vượt qua bóng đêm nghiệt ngã của sự hiềm khích hận thù thời trung cổ. Sự lưu cữu hận thù này là một nhát cắt oan nghiệt đè nặng lên đôi lứa đang yêu nhau và sẵn sàng hi sinh vì tình yêu, và Giu-li-ét cũng vậy. Cái chết của họ là một hồi chuông cảnh tỉnh cho toàn nhân loại phải tôn trọng sự tự do hạnh phúc yêu đương của con người. Trong một hoàn cảnh xã hội u ám, lạnh lẽo, đôi tình nhân Rô-mê-ô và Giu-li-ét vẫn ấm áp bởi vì họ có tình yêu. Tình yêu đem lại hơi thở và sức sống căng tràn cho tâm hồn, nếu đó là tình yêu trong sạch. Họ chết rất bi thảm, cũng vì để bảo vệ tình yêu.
Sau Rô-mề-ô và Giu-li-ét, NỞ kịch Hăm-lét được sếch-xpia sáng tác vào năm 1601, lại chứng minh về sức mạnh phi thường của con người chống lại cái ác đang hoành hành trong xã hội. Hăm-lét là một điển hình về kiểu con người biết hành động dũng cảm, thông minh để diệt trừ cái ác. Từ nơi xa nghe tin vua cha mất, Hăm-lét liền vội vã về kinh, về đến nơi, chàng choáng váng khi thấy người chú ruột là Clô-đi-út lên ngôi vua và mẹ chàng vội vã tái giá với hắn. Đêm đêm, Hăm-lét thơ thẩn và được hồn vua cha hiện về báo cho chàng biết về cái chết oan của mình. Chàng phải giả điên, giả dại để tồn tại trong kinh thành. Thấy vậy, Clô- đi-út phái nhiều tên theo dõi chàng và hắn cùng một tên cận thần rình rập để theo dõi cuộc gặp gỡ của chàng và con gái của Plô-ni-út. Đoán biết được âm mưư của chúng, Hăm-lét tiếp tục giả điên để tìm ra sự thật. Chàng luôn luôn tâm niệm rằng thời đại tan hoang. Nhưng quái ác thay, chính ta lại sinh ra để dựng nó lại ngay ngắn vững vàng.
Chàng đã bố trí để nhà vua và hoàng hậu cùng xem một vở kịch có cảnh mưu sát gần như là cái chết của cha chàng. Hăm-lét đã gặp hoàng hậu và phân tích cho bà thấy rõ những sai lầm. Tên Plô-ni-út rình mò để nghe trộm đã bị lưỡi gươm của chàng hạ sát.
Clô-đi-út tin chắc rằng Hăm-lét chỉ giả điên, để trừ hậu họa, hắn đã phái chàng sang Anh quốc. Chàng phát hiện ra bức mật thư liền trở về Đan Mạch. Thấy người yêu quá đau khổ trước đám tang của cha và ngã xuống vực chết đuối, chàng đau khổ vô cùng. Anh trai nàng đã nhảy vào đánh chàng. Clô-đi-út nảy ra một quỉ kế là trừ khử chàng bằng cách cho chàng và La-ốc-tê đấu kiếm. Chàng đã đánh rơi kiếm của La-ốc-tê và hai bên đổi kiếm cho nhau. Để phòng xa, Clô-đi-út đã chuẩn bị sẵn chén rượu độc để trừ khử chàng nếu chàng chiến thắng. Hàm-lét đã đâm trúng đối phương và được biết âm mưư của hắn. Hăm-lét đã xông đến đâm trúng Clô-đi-út. Cuối cùng Hăm-lét cũng giải quyết được mọi chuyện và ngã xuống trong sự thanh thản hoàn toàn.
Mượn câu chuyện về chàng hoàng tử Đan Mạch hoài nghi và dũng cảm, thông minh, sếch-xpia đã tố cáo một xã hội đảo điên, tan tác. Bấy giờ, nước Anh đang ở trong thời kì quá độ từ phong kiến đi lên chủ nghĩa tư bản. Trong cảnh tranh tối tranh sáng ấy, nhiều thế lực hắc ám, tàn bạo đã xuất hiện gây nên những tội ác đáng ghê tởm. Không thể chịu khoanh tay trước cái ác, những người như Hăm-lét đã dũng cảm đấu tranh để diệt trừ cái ác, Hăm-lét là một nhân vật dám nghĩ, dám hành động. Như Hê-ghen đã viết rằng: “Hăm-lét tự mình không kiên quyết, tuy nhiên, anh nghi hoặc không phải ở chỗ mình phải làm cái gì, mà ở chỗ mình phải làm điều đó như thế nào”. Cuối cùng, chàng đã tiêu diệt được kẻ thù và ngã xuống một cách anh hùng. Sự hi sinh của Hăm-lét chứng tỏ rằng lực lượng tiến bộ, chính nghĩa còn non yếu nhưng tinh thần đấu tranh của Hăm-lét đã từng làm bừng thức trái tim của loài người tiến bộ.
Nội dung nhân văn chủ nghĩa trong văn học ở các nước Tây Âu là một trong những thành tựu rực rỡ của nền văn minh nhân loại. Nó đã làm cho con người có ý thức mạnh mẽ về vai trò của cá nhân, về quyền được sống, quyền hạnh phúc cho nên chủ nghĩa nhân văn được mọi người đón nhận một cách nồng nhiệt.
Là một trong những nhà văn thiên tài giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa nhân văn, Uy-li-am Sếch-xpia xứng đáng là một trong những nhân vật khổng lồ của thời đại phục hưng. Chủ nghĩa nhân vãn trong vãn học nghệ thuật càng có giá trị hơn khi dân tộc ta và loài người tiến bộ đang khép dần cánh cửa của thế kỉ XX để bước vào thế kỉ XXI - thế kỉ mà chắc chắc là về mặt khoa học và nghệ thuật sẽ còn có những thành tựu sáng ngời hơn nữa.
Viết bình luận