Em hãy phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Ai đã từng xem bức chân dung Hoàng Lạp Ngôn vẽ Thế Lữ, mới thấy nhà ‘Tinh tướng họa” này thật hóm hỉnh và thâm thúy khi thể hiện gương mặt tác giả Nhớ rừng trong gương mặt... chúa sơn lâm! Nghĩa là khuôn mặt con hổ chính cống.

Ngưòi có công “dựng thành nền Thơ mới ở xứ này” cũng như chúa sơn lâm chứ sao! Và có lẽ, chính con hổ “nhớ rừng” kia đã làm nên Thế Lữ. Thi ra, họ hóa thân vào nhau, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Quái lạ thay là nghệ thuật tạo hình!

Ta vừa nói đến nghệ thuật tạo hình. Vâng, chính Thế Lữ đã viết Nhớ rừng bằng nghệ thuật tạo hình! Nếu Hoàng Lạp Ngôn vẽ nên con hổ - Thế Lữ bằng hội họa đơn thuần, thì Thế Lữ đã tạo hình con hổ - nhớ rừng bằng hội họa của... thơ! Trong nét bút của Thế Lữ, người ta không chỉ thất họa pháp của một họa sĩ từng theo học Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương, mà hơn hết là thi pháp nghiêng về tạo hình của trường phái thơ lãng mạn (Nghiên cứu những trường phái thơ Pháp, để thấy rằng: nếu thi phái tượng trưng nghiêng hắn về nhạc, thì thi phái lãng mạn nghiêng về nghệ thuật tạo hình, nhất là hội họa)! Vì thế mà Nhớ rừng vừa là một khúc trường ca dữ dội thể hiện một tâm trạng vĩ đại của chúa sơn lâm, vừa là một họa phẩm hoành tráng kì vĩ làm nổi hẳn lên trên mặt bằng của câu chữ hình tượng vị “chúa tể cả muôn loài”. Tiếng Việt trong Thơ mới đang hối hả, đang ráo riết đi tìm mình, thì đến những bài như Nhớ rừng đã thấy cái tiết điệu cần tìm của nó. Chẳng thế mà Vũ Đình Liên đã có thể trích hai câu trong bài này và cả quyết: Chỉ hai câu Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối, ta say mồi đứng uống ánh trăng tan cùng có sức mạnh của một tuyên ngôn để bênh vực cho Thơ mới.

Nhớ rừng 2

Nhiều người đã nói đến nội dung xã hội bài thơ. Thậm chí có những lúc người ta đã cho rằng nội dung yêu nước mới là nội dung đích thực và đáng kể nhất của Nhớ rừng. Hướng lĩnh hội ấy đã càng ngày bộc lộ sự ấu trĩ của nó. Tâm trạng của chúa sơn lâm là một bi kịch. Không chỉ là bi kịch của một con hổ. Không chỉ là bi kịch của riêng Thơ mới. Mà là bi kịch của thời đại ấy: bi kịch Sống mòn\ Thế Lữ đã kí thác vào hình tượng con hổ bị cầm tù trong cũi sắt giữa vườn bách thú vẫn ôm trong lòng niềm uất hận ngàn thâu, vẫn đương theo giấc mộng ngàn to lớn - cái nỗi niềm của cả thế hệ mình, thời đại mình: mối bất hòa với thực tại. Họ sống trên quê hương mà luôn thấy thiếu quê hương, sống trong hiện tại mà chỉ muốn thoát li khỏi hiện tại. Gậm một khối căm hờn trong củi sắt mà đau đáu một nỗi nhớ rừng, tâm trạng của con hổ cũng là tâm trạng của họ. Hiện tại là cũi sắt, thực tại là cũi sắt, quá khứ là rừng già, mơ ước là rừng già - mà con hổ ấy đã gọi thật trang trọng là nước non hùng vĩ. Đối với chúa sơn lâm, rừng già là tất cả. Nhớ rừng là nhớ tiếc tự do. Nhớ rừng là nhớ tiếc thời oanh liệt. Nhớ rừng là nhớ cái cao cả... Tất cả xuất phát từ phản ứng dữ dội với thực tại cầm tù trói buộc, thực tại tầm thường giả dối, thực tại vô vị, vô tích sự!... Toàn bộ ý nghĩa của cuộc đời mình là ở nơi rừng. Đánh mất rừng cũng là đánh mất mình. Hằng ngày thấy mình cứ tầm thường hóa đi mà bất lực! Khao khát rừng là khao khát được là mình! Đó chẳng phải là khát vọng của một cái tôi đòi giải phóng đó ư! Bởi đây là chứa sơn lâm, nên cái logic của nó: nhất nhất phải là tầm vóc chúa tể muôn loài. Nghĩa là tất cả phải đều có kích thước kỳ vĩ, hoành tráng, chế ngự, bao trùm. Nhưng đằng sau những cái riêng thuộc đặc tính hình tượng của chúa sơn lâm,ta đều thấy cái chung của tâm trạng con người. Có lần, người viết đã nói Thơ mới là một điệu sầu mênh mông, mà nếu đem phân chất, ta sẽ thấy trong đó ba mối sầu đậm nhất: sầu nhân thế, sầu thời thế và sầu thân thế: Ba mối sầu này đan quyện, chuyển hóa sang cất lên mà thành Thơ mới. Nhớ rừng nghiêng về mối sầu thứ ba ấy. Tâm trạng chúa sơn lâm chính là tâm trạng “Hùm thiêng khi đã sa cơ”, tâm trạng bi tráng của một anh hùng thất thế! Vì thế mà lời than đầy hùng tâm tráng chí này không chỉ rung chuyển rừng già, mà còn làm rung chuyển muôn vạn con tim của thời đại ấy:

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Ai chẳng có thời oanh liệt của riêng mình! Nó là đoạn đời huy hoàng chói lọi, là quãng đời ý nghĩa nhất của đời mình! Vì thế bất cứ người nào trong cuộc đời này, nếu là người luôn luôn khát sống thì rồi cũng sẽ có một lúc nào ngấm nỗi hận sầu thất thế, để rồi cất lên tiếng than u uất kia của chúa sơn lâm? Trong mỗi một cuộc đời, một kiếp người đều tìm ẩn cái tiếng than đầy nhân bản ấy của con hổ này! Nói con hổ “nhớ rừng” mang trong nó một tâm trạng vĩ đại còn chính vì điều ấy!
Bút pháp tạo hình của Thế Lữ ở đây chủ yếu thể hiện trong việc khắc họa cái phi thường. Và để làm sắc nét điều ấy, thi sĩ đã tạo ra sự tương phản nhất quán và nhuần nhuyễn giữa cái PHI THƯỜNG và cái TẦM THƯỜNG. Chúa sơn lâm được đặt ở trong tâm bức tranh và tất cả đều được nhìn qua con mắt của loài mãnh thú này, vì thế mà tất cả đều trở nên tầm thường. Đối diện với hổ, con người cũng chỉ là lũ người ngạo mạn ngẩn ngơ với mắt bé dám giễu oai linh rừng thẳm. Bọn gấu thì dở hơi, cặp báo chỉ là loài ươn hèn nô lệ, hời hợt vô tư lự. Cái thế giới rừng già bên chúa sơn lâm thảm hại đã đành. Mà ngay cả bao tạo vật, cảnh trí lớn lao trong vũ trụ cũng trở nên tầm thường vô nghĩa. Bằng cách tương phản như thế, hình ảnh chúa sơn lâm trở nên kì vĩ! Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi; Với khi thét khúc trường ca dữ dội; Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng; Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng..., con mãnh thú mới chỉ là chúa tể muôn loài trong xứ sở của mình, giữa chốn rừng núi. Nhưng đến bộ tranh tứ bình này, thì nó đã trở thành chúa tể cả vũ trụ:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh Mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
Chẳng phải đây là đoạn tuyệt bút của Nhớ rừng hay sao?

Thực ra tứ bình là một lối tạo hình quen thuộc* từ cổ điển. Người xưa thường khái quát hiện thực vào bộ tứ bình. Cho nên tứ bình là một cấu trúc, một chỉnh thể, một thế giới. Thời gian thì xuân - hạ - thu - đông, thảo mộc thì tùng - trúc - cúc - mai. Nghề nghiệp thì ngư - tiều - canh - mục... tâm trạng nhớ chồng của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm cũng diễn thành cảnh trông bốn bể, tâm trạng nhớ nhung, buồn nản hãi hùng của Kiều trước lầu Ngưng Bích cũng diễn thành tứ bình với các điệp khúc Buồn trông... Rồi sau này trong Việt Bắc, Tố Hữu cũng diễn tả Việt Bắc qua bốn mùa thành tứ bộ bình lộng lẫy như thế. Vậy nên, dùng “tứ bình thì chưa phải là điều thật mới, thật riêng. Điều đáng nói là bốn bức tranh trong bộ tứ bình này đều là bốn bức tự họa của cùng một con hổ, nó đã khái quát trọn vẹn về cái thời oanh liệt của chúa sơn lâm. Bốn bức tranh là bốn nỗi hoài niệm đầy tiếc nuối, uất hận, bốn câu hỏi mà giọng điệu ngày một tăng tiến dữ dằn. Mà đáng kể hơn cả là bức thứ nhất và bức thứ tư. Nào đâu... là một lời nuôi tiếc, ngậm ngùi, hợp với không khí thi vị của những đêm vàng bên bờ suối và hợp với dáng điệu say mồi mà vẫn hào hoa, nghệ sĩ: ta say mồi đứng uống ánh trăng tan. Đến đâu... giọng điệu đã khác hẳn! Không còn là lời thở than, mà đã là lời chất vấn quá khứ, lời chất vấn dữ dội, oai linh:

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh Mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

Nhớ rừng

Đây là hình ảnh oai hùng; lẫm liệt tạo nên dáng điệu kiêu hùng, bạo chúa. Mấy chữ lênh láng máu thật dễ sợ. Nó gợi ra cảnh tượng chiến trường sau một cuộc vật lộn tàn bạo. Nó là máu của con thú rừng xấu số nào đó ư? Không phải! Đó là máu của Mặt trời. Ánh tà dương lúc Mặt trời hâp hối, qua cảm nhận của con mãnh thú chính là sắc màu lênh láng đỏ. Chiều lênh láng máu, chữ chiều gợi được một thời gian. Máu đã trở thành kỉ niệm. Đối với con thú này màu máu lênh láng là màu thời gian. Chữ sau rừng gợi được cái không gian nhuộm đầy máu đỏ của mặt trời, vừa gợi được cái bí hiểm của nơi diễn ra cuộc tranh chấp đẫm máu. Chữ chết đã biến mặt trời thành một sinh thể. Nó không còn là khối cầu lửa vô tri vô giác, bất động giữa không trung, mà thành một con thú. Chữ mảnh là hình ảnh mặt trời trong con mắt ngạo mạn và khinh miệt của hổ. Sự gay gắt trong giờ phút hấp hối dường như càng khiến cho chúa sơn lâm khinh bỉ. Thì ra đối thủ của con hổ này không phải là những loại gấu, báo vô tư lự, dở hơi đã đành. Mà con người cũng không xứng đáng là đối thủ của nó. Trong vũ trụ này, chỉ có một kẻ duy nhất được chúa sơn lâm xem là kì phùng địch thủ: vầng thái dương!

Nhưng trong cuộc tranh chấp kia, phần thắng vẫn thuộc về vị chúa tể muôn loài. Ba chữ mảnh mặt trời đã hoàn toàn hạ bệ, hạ gục đối thủ, làm cho mặt trời cùng trở nên thảm hại. Bằng cuộc tranh chấp với mặt trời để chiếm lấy riềng phần hí mật, Thế Lữ đã nâng cao mãnh thú này lên tầm vóc vũ trụ, kì vĩ nhất trong những cái kì vĩ của vũ trụ này. Đến câu thơ ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt, bàn chân ngạo nghễ của con thú như giẫm đạp lên bầu trời và cái bóng của nó cơ hồ đã trùm kín vũ trụ. Và Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật thì đã tỏ rõ cái oai linh của kẻ thống trị cả vũ trụ này rồi vật! Sự phi thường, kì vĩ đã lên tới tột bậc, vô biên!

Tất cả giọng điệu tráng ca hào hùng, tất cả bút pháp cường điệu khoa trương đặc thù của chủ nghĩa lãng mạn sẽ trở nên chơi vơi, sáo rỗng nếu như không phải đây là chúa sơn lâm. Sự phù hợp tuyệt vời giữa đối tượng mô tả và nghệ thuật mô tả đã chắp cánh cho thơ Thế Lữ bay lên dõng dạc, đường hoàng như một khúc trường ca dữ dội!

Viết bình luận