Vẻ đẹp của hai hình tượng người lính thời kì kháng chiến chống pháp trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng và "Đồng Chí" của Chính Hữu
Người lính là hình tượng trung tâm trong văn học kháng chiến. Ở mỗi thời kì lịch sử của mỗi cuộc chiến tranh, người lính trong đời sống thực tế cũng như trong thơ ca đều có những nét khác nhau. Đầu cuộc kháng chiến chống Pháp có hai loại người lính: một là người lính xuất thân từ nông dân như trong bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Cá, nước” của Tố Hữu, “Đồng chí” của Chính Hữu; hai là người lính xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản thành thị (hồi đó có phong trào xếp bút nghiên lên đường tranh đấu) như “Tây Tiến” của Quang Dũng. Cả hai đều cùng chung lí tưởng yêu nước giết giặc, cùng thể hiện tinh thần hi sinh dũng cảm, tự nguyện từ biệt quê hương gia đình sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc, vì nhân dân. Nhưng đồng thời họ cũng có những vẻ đẹp khác nhau, đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Người lính trong bài thơ “Tây Tiến” được xây dựng bằng cảm hứng lãng mạn. Bút pháp lãng mạn thường thể hiện bằng cái phi thường. Khung cảnh hoạt động của người lính là khung cảnh phi thường:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Những độ cao, những vực thẳm, những heo hút chỉ tăng vẻ hào hùng cho người lính chứ không đe dọa người lính. Thiên nhiên còn ẩn chứa cả những bí mật, những hiểm nguy:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người.”
Hình tượng người lính cũng thật là phi thường. Người lính Tây Tiến gần với người hiệp sĩ vì nghĩa lớn, nhưng họ là những con người bằng xương bằng thịt đang chiến đấu gian khổ trong những ngày đầu kháng chiến.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Diễn tả những gian khổ của người lính ở rừng rất chân thật, thiếu ăn, thiếu thuốc sốt rét... đến nỗi rụng hết tóc. Nhưng bút pháp lãng mạn không làm yếu người lính mà càng oai hùng đầy tự hào.
Cái chết cũng bi hùng, đượm tinh thần hi sinh của hiệp sĩ:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Người lính Tây Tiến mang theo nét hào hoa của những thanh niên Hà Nội đi chiến đấu thời bấy giờ - trong đó có Quang Dũng. Tình quân dân cũng nhuốm màu sắc lãng mạn:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”
Con người như lạc vào thiên nhiên mơ mộng, lạc vào xứ lạ, phương xa thường thấy trong cảm hứng lãng mạn.
Giấc mơ của người lính cũng là giấc mơ của những thanh niên Hà Nội tràn đầy tinh thần lãng mạn:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hình tượng người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu được tác giả viết với bút pháp hiện thực. Người lính hiện lên với tất cả các dáng vẻ chắt phác lam lũ của người nông dân mặc áo lính. Họ là người của tứ xứ, của những làng quê nghèo đói gặp nhau trong lí tưởng cứu nước:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Từ tình yêu giai cấp, họ đã nâng lên thành tình đồng chí, một tình cảm mới mẻ:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”
Tấm chăn đắp lại thì tâm tư họ lại mở ra, họ hiểu rõ hoàn cảnh của nhau:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”
Ớ ngoài chiến trường mà nghe rõ gió lay từng gốc cột của ngôi nhà mình, người lính thương yêu gia đình, quê hương biết bao nhiêu, nhưng trước hết họ phải vì nghĩa lớn. về tinh thần “hiệp sĩ” này họ lại rất gần với người lính Tây Tiến.
Họ sẵn sàng chịu đựng những gian khổ tột cùng của cuộc kháng chiến:
“Ảo anh rách vai
Quần tôi có vài miếng vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Tình đồng chí đã nuôi dưỡng tâm hồn của những người lính và họ đã biến nó thành sức mạnh chiến đấu.
Bút pháp miêu tả cũng khác nhau. Một chi tiết trong thơ: Chiếc áo Quang Dũng nói là “áo bào” có tính chất “hiệp sĩ” còn Chính Hữu nói “áo anh rách vai” rất hiện thực.
Từ tình thương yêu giai cấp, họ đã cùng vươn lên đỉnh cao của tình đồng chí:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bển nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Chung nhau một cái chăn là một cặp đồng chí, “áo anh rách vai”, “quần tôi có vài miếng vá” là một cặp đồng chí. Nắm đôi bàn tay mà ấm cả đôi bàn chân là một cặp đồng chí. Đêm nay giữa rừng hoang sương muối “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” là một cặp đồng chí. Lạ thay, “súng” và “trăng” cũng là một cặp đồng chí:
“Đầu súng trăng treo”
Cặp “đồng chí” này nói về cặp “đồng chí” kia nói được cái cụ thể và gợi đến vô cùng. “Súng” và “trăng”, gần và xa, “Tôi với anh hai người xa lạ, Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. “Súng” và “trăng” cứng rắn và dịu hiền. “Súng” và “trăng”, chiến sĩ và thi sĩ. “Súng” và “trăng” là biểu hiện cao cả của tình đồng chí.
Sự kết hợp yếu tố hiện thực tươi rói với tinh thần lãng mạn cách mạng là vẻ đẹp riêng của hình tượng người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
Viết bình luận