Phân tích truyện ngắn Đời thừa cùa Nam Cao

I. Mở bài

1. Truyện ngắn Đời thừa đăng trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy số 490 ra ngày 4/12/1943.

2. Tác giả cảm thông và xót xa đối với tấn bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng của người trí thức nghèo có tài năng, có tâm huyết, giàu lòng nhân đạo trong xã hội thực dân phong kiến. Đồng thời lên án gay gắt cái xã hội ngột ngạt bóp chết mọi mơ ước, tước đoạt cuộc sống chân chính của con người, đã đầu độc tâm hồn con người và mối quan hệ vốn đẹp đẽ giữa người và người.

phan-tich-nhan-vat-ho-trong-truyen-ngan-doi-thua-cua-nam-cao

II. Phân tích

1. Nhân vật Từ

    - Ngoại hình: Nam Cao rất ít tả ngoại hình của nhân vật Từ. Phần cuối truyện, chỉ có một vài nét vẽ, tác giả tả Từ một người đàn bà “bạc mệnh”', da mặt xanh nhợt, môi nhợt nhạt, mi mắt hơi tim tím, mắt có quầng, má hơi hóp lại... Cái bàn tay lủng củng rặt những xương, cổ tay mỏng mảnh. Làn da mỏng, xanh trong, xanh lọc... Đó là hình ảnh một thiếu phụ nhiều lo lắng, thiếu thốn về mặt vật chất, vẻ đẹp thời con gái đã tàn phai.

    - Lỡ làng vì bị tình phụ. Cảnh Từ ôm con sau ngày sinh, nhịn đói, mẹ già bị mù, cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho dên khi nào bao nhiêu thịt đều chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả.

    - Từ là hội tụ bao đức tính tốt đẹp của người vợ yêu chồng, người mẹ thương con. Dịu dàng, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh. Từ hiểu rằng Hộ khổ là vì Từ. Từ chén nước đến cử chỉ lời nói, chị đã dành cho Hộ bao tình thương yêu. Bị Hộ say rượu hắt hủi, đánh đuổi, nhưng Từ vẫn yêu chồng, không thể ôm con bỏ đi được, vì ngoài tình yêu, Hộ còn là ân nhân của chị. Từ yêu chồng bằng một thứ tình yèu rất gần với tình của một con chó đối với người nuôi.

    - Phần cuối truyện, Từ ôm lấy cổ chồng nói: “...Không!... Anh chỉ là một người khổ sở... Chính vì em mà anh khổ...”. Nàng ru con qua dòng nước mắt... cho thấy Từ là một người bạc mệnh, bản tính rất dịu dàng, giàu đức hi sinh.

    - Nam Cao với trái tim nhân đạo đã miêu tả sâu sắc tâm hồn nhân hậu của Từ, cảm thông với nỗi đau của Từ, của bao người phụ nữ bạc mệnh và đau khổ trong xã hội cũ. Tiếng ru con của Từ là tiếng thương, là nỗi đau buồn về cuộc đời bi kịch của người phụ nữ: sống trong tình yêu mà ít có hạnh phúc!

2. Nhân vật Hộ

a. Hộ là một con người giàu tình thương

    - Hộ đã hành động một cách cao đẹp là nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ. Lúc mẹ Từ qua đời, Hộ đã đứng ra làm ma, rất chu đáo. Hộ nhận Từ làm vợ, nhận làm bố cho đứa con thơ... Như một nghĩa cử cao đẹp, Hộ đã cứu vớt mẹ con Từ. Biết bao nhiêu là ân nghĩa. Hộ sống vì tình thương, vì sự bao dung chở che, như anh quan niệm: Kể mạnh chính là kể giúp đỡ kể khác trên đôi vai mỉnh.

    - Hộ là một người chồng thật sự yêu thương vợ con. Anh tính chuyện phí đi một vài năm để kiếm tiền lo cho Từ một cái vốn làm ăn. Những lúc Từ ốm, Hộ lo xanh mặt và thức suốt đèm. Chỉ xa các con vài ngày, lúc gặp lại chúng, Hộ cảm động đến ứa nước mắt, hôn hít chúng vồ vập. Có lúc từ mồng mười đến cuối tháng, Hộ không dám bước chân ra khỏi nhà đế' bớt chi tiêu, thương vợ con có bữa phải nhịn cơm ăn cháo. Sắp nhận được tiền nhuận bút, Hộ thương đàn con thơ cả tháng đói khát khổ sở, hôm nay có tiền củng nền cho chúng nó một bữa ăn ra hồn.

    - Hộ là một nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Với Hộ thì trang văn là cuộc đời, thấm tình đời phải chứa đựng dược một cái gỉ lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tỉnh bác ái, sự công bỉnh. Nó làm cho người gần người hơn. Đó là một quan niệm rất tiến bộ, quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh. Nhà văn phải vì con người, vì hạnh phúc của con người. Qua đó, ta thấy, là con người xã hội, là nhà vãn, là người chồng người cha, trong con người và tâm hồn.

Hộ đều tỏa sáng một tình nhân ái bao la. Anh đã sống và hành động, vun đắp cho hạnh phúc của con người.

nhân vật từ

b. Hộ là nhà văn trải qua một bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng

    - Hộ có tài, lúc đầu, anh viết rất thận trọng. Mang một hoài bão lớn, anh băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời. Từ khi phải lo kiếm tiền nuôi vợ con, Hộ cho in nhiều cuốn văn viết vội, anh xấu hổ khi đọc lại văn mình, tự xỉ vả mình là một thằng khốn nạn, là một kể bất lương Trước kia tin tưởng bao nhiêu thì nay đau đớn thất vọng bấy nhiêu! Hộ rủ buồn, lắc đầu tự bảo: Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi!

    - Văn chương đối với Hộ như là một cái nghiệp. Nợ áo cơm ghì sát đất, nhưng anh vẫn mê văn. Hộ nói, đọc được một câu văn hay mà hiểu được thì dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng. Hộ điên người lên vì phải xoay tiền nhưng tự bảo khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi.

    - Mất dần cuộc đời hồn nhiên trong sáng, có lúc chan chứa nước mắt, mặt hầm hầm. Hộ đọc sách mà trông cũng dữ tợn: đôi lông mày rậm... châu đầu lại với nhau... cái mặt hốc hác...

    - Hộ đã tìm đến rượu để giải sầu, càng ngày càng lún sâu vào bi kịch, say rượu và đối xử vũ phu với vợ con. vốn rất yêu vợ con nhưng có hôm say rượu anh ta gườm gườm đôi mắt, đòi vật một nhát cho chết cả. Tỉnh rượu lại bẽn lẽn xin lỗi Từ, hứa chừa rượu, được một thời gian ngắn, lại say, lại đánh vợ, làm những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước. Trở thành bê tha hắn đã ngủ một nửa ngày từ khi còn ở dọc đường, về đến nhà thì đổ xuống giường như một khúc gỗ... ngủ say như chết! Có điều lạ, Hộ rất tỉnh khi anh bàn luận văn chương, rất biết điều và ân hận thực sự lúc tỉnh rượu. Anh ta nhìn Từ xanh xao mà thương hại, nắm lấy tay Từ mà khóc, nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc... Ổi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở... Rồi anh tự lên án mình chỉ là... một thằng... khốn nạn!

    - Và câu hát ra còn thấm lệ của Từ như tô đậm thêm bi kịch của Hộ, của hai vợ chồng. Nỗi đau ấy được cực tả qua câu hát cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương. Tiếng khóc của Hộ, tiếng khóc của Từ mang ý nghĩa tố cáo cái xã hội tàn ác đã cướp đi mọi mơ ước, đã đày đọa cuộc sống của mỗi gia đình, đã đầu độc tâm hồn con người và làm méo mó mối quan hệ vốn tốt đẹp giữa người và người.

    - Cũng qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã thể hiện ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy nghĩ và đằm thắm yêu thương. Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật qua dòng độc thoại, qua tiếng khóc của Hộ và Từ làm cho người đọc vô cùng thấm thía về bi kịch của một trí thức nghèo, của một nhà văn nghèo trong xã hội cũ.

III. Kết luận

Truyện Đời thừa là một thành công tiêu biểu của Nam Cao viết về đề tài người trí thức nghèo trước Cách mạng. Truyện đã hàm chứa một tính nhân đạo và có giá trị tố cáo hiện thực sầu sắc. Truyện Đời thừa nói lên một quan niệm văn chương rất tiến bộ của Nam Cao: Văn chương phải vì con người, làm cho người gần người hơn. Hộ như một nhân vật tự truyện, được xây dựng rất chân thực và sắc sảo, cho thấy cái tài của Nam Cao trong kể chuyện và khắc họa tính cách nhân vật. Từ Hộ trong Đời thừa đến Độ trong Đôi mắt cũng là một nhịp đời của Nam Cao đến với Cách mạng và kháng chiến.

Viết bình luận