Phân tích bài thơ Hầu Trời của Tàn Đà
Tình huống thơ bắt đầu từ tiếng ngâm thơ vang cả sông Ngân Hà khiến Trời mất ngủ. Rõ ràng, cái duyên được lên hầu trời gắn liền với câu chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cao hứng của nhà thơ. Chuyện bịa mà xem chừng rất tự nhiên!
Bài thơ có rất nhiều chi tiết cụ thể được xếp đặt logic; nằm một mình, buồn, đun nước uống, ngâm văn; tiên xuống, nêu lí do, dưa lên trời; được đón tiếp trọng vọng, được mời đọc thơ, chư tiên xúm vào khen ngợi tán thưởng; Trời truyền hỏi danh tánh, kể lể tình cảnh, bày giãi nỗi lòng, trời đả thông tư tưởng, lạy tạ ra về... Dường như tác giả muốn người đọc xác nhận đây là một câu chuyện thật.
Nhà thơ rất khéo léo tả bối cảnh, từ bối cảnh thanh đạm của phòng văn nơi hạ giới tới bối cảnh rực rỡ, oai nghiêm của chốn thiên đình. Nhờ vậy, không gian của câu chuyện trở nên có nhiều tầng lớp, phương vị, tương khớp vứi trường hoạt động của các nhân vật.
Các đoạn đối thoại và miêu tả những phản ứng tâm lí đa dạng của từng loại nhân vật được cài vào nhau thật linh hoạt, khiến người đọc có cảm tưởng mình đang tham gia thực sự vào câu chuyện, cùng nếm trải những phút sướng lạ lùng, đắc ý, cao hứng tột bậc của nhân vật trữ tình.
Việc hư cấu nên cả một câu chuyện trong bài thơ này có ý nghĩa cách tân nhất định. Nó như muốn đưa thơ trữ tình thoát dần nhiệm vụ tỏ chí trang nghiêm, khắc khổ để tiện giãi bày cảm xúc phóng khoáng của con người cá nhân và xây dựng một quan hệ giao tiếp mới đối với độc giả thành thị khi đó.
Chuyến hầu Trời bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ nói được nhiều điều về tài năng của bản thân, về nghề văn trong những thập niên đầu của thế kỉ XX và sứ mệnh của xã hội mà ông tự đứng ra gánh vác.
Nhà thơ công khai nói về cái tài của mình:
Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Trời nghe, trời cũng lấy làm hay.
Văn đã giàu thay, lại lắm lối
Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt!
Văn vần được thế chắc có ít!
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
Các nhà nho tài tử trước Tản Đà tất thảy đều thị tài (cậy tài, khoe tài), nhưng chữ tài mà họ nói tới nhiều khi mang một nội hàm khá rộng, gắn liền với khả năng kinh bang tế thế. Có lẽ trước Tản Đà ít ai nói trắng ra cái hay, cái tuyệt của văn thơ mình như vậy; hơn nữa lại nói trước mặt Trời (một ông trời cũng khá bình dân). Rõ ràng ý thức cá nhân ở nhà thơ đã phát triển rất cao và Tản Đà không hề vô lối khi tự khen mình (để cho Trời khen thì cũng là một hình thức tự khen - có ai kiểm chứng được lời của Trời nói đâu). Nhà thơ đã thấy được dài, giàu, lắm lối là phẩm hạnh đặc thù của văn thời mình, bên cạnh những phẩm hạnh mang tính chất truyền thống như nliời văn chuốt đẹp, khí văn hùng mạnh, èm, tinh... tình huống hầu Trời quả đã cho nhà thơ một cơ hội tuyệt vời để phô bày một cách sảng khoái tài năng của bản thân. Thật dễ thông cảm khi mọi nhân vật đều đang ở trong tình trạng cao hứng, từ nhà thơ đến chư tiên và sau hết là ... Trời!
Nhà thơ chỉ cao hứng như thế khi gặp được người hiểu và thông cảm mà thôi. Ớ hạ giới dễ đâu tìm được người tri âm như vậy! Lời trời khen hẳn là sự thẩm định có sức nặng nhất, không thể bác bỏ, nghi ngờ. Đúng là một lối tự khẳng định rất ngông của vị trích tiên!
Trong bài thơ, Tản Đà không trực tiếp phát biểu quan niệm của mình về nghề văn. Tuy vậy, ẩn sau các câu chữ, ta vẫn thấy có một sự hình dung khác trước về hoạt động tinh thần đặc biệt này. Trong mắt Tản Đà, văn chương lúc này là một nghề kiếm sống mới, có người bán,
kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường cũng hết sức phức tạp, không dễ chiều. Điều đáng lưu ý khác là dường như Tản Đà đã ý thức được sự cần thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải trường vốn để theo đuổi nó dài dài (Nhờ Trời văn con còn bán được - Chửa biết con in ra mấy mươi - vốn liếng còn một bụng văn đó). Sau cùng, phải thấy rằng Tản Đà đã chớm nhận ra: đa dạng về loại, thể là một đòi hỏi cấp thiết của hoạt động sáng tác và với những sáng tác mới, tiêu chí đánh giá hẳn nhiên là phải khác xưa...
Trong hẳn một khổ thơ (từ câu 65 đến câu 68), tác giả đã tâu trình rõ ràng về họ tên, xuất xứ của mình cho Trời nghe. Việc xưng danh của tác giả đã diễn ra khá tự nhiên, phù hợp hoàn toàn với mạch truyện và đây không phải là hiện tượng chưa từng có trong văn học trung đại hay trong các sinh hoạt văn nghệ dân gian. Nhưng dấu ấn Tản Đà trong cung cách xưng danh vẫn thể hiện khá rõ: tách tên, họ theo một kiểu cung khaị lí lịch rất hiện đại, lại còn nói rõ bản quán, quốc tịch, châu lục, tên của hành tinh... có một nụ cười hóm hỉnh ẩn đằng sau vẻ thật thà, thành khẩn trước đấng chí tôn, nhưng điều đáng nói hơn hết vẫn là ý thức cá nhân, ý thức dân tộc của nhà thơ. Một cái tên - tên thật chứ không phải tự hay liệu - mà được nói ra trịnh trọng đến vậy hẳn nhà thơ phải thấy có một giá trị không thể phủ nhận gắn liền với nó. Hơn nữa, ông còn muốn Trời thấy được Nguyễn Khắc Hiếu chính là con người của Á châu, của xứ sở có một nền văn minh tinh thần cao quý, đáng tự hào. Cụ thể hơn nữa, ông kiêu hãnh khai mình là đứa con đích thực của sông Đà núi Tản nước Nam Việt. Khi trong thời hiện đại, hai chữ thiền hạ đã trở thành một khái niệm mở (điều này Tản Đà ý thức rất rõ), đặc biệt là khi đất nước mất chủ quyền, kiểu nói này của nhà thơ rõ ràng chứa đựng một thái độ tự tôn dân tộc, một tình cảm non nước đáng quý. Cũng qua câu thơ, tác giả đã ngầm cho biết lai lịch của bút hiệu Tản Đà - một điều đã từng được ông thể hiện trong nhiều bài thơ khác.
Lối kể chuyện đầy tính chất bình dân và giọng khôi hài trong bài thơ (trong hai đoạn từ câu 37 đến câu 43 và từ câu 53 đến 56) hoàn toàn thống nhất với nhau, hỗ trợ cho nhau. Chúng lộ rõ trước hết ở thái độ hào hứng của người kể trước một đối tượng nghe chuyện đồng đảng, rất mực thân tình. Ngay trong chuyện kể, quan hệ giữa nhân vật trữ tình và chư tiên xem ra suồng sã, thân mật (chư tiên gọi nhân vật trữ tình là anh). Từ dùng ở đây nôm na, bình dị như được tiện tay lấy từ đời sống thường nhật, lại được đặt trong ngữ điệu nói nên càng có ý vị. Đặc biệt, dưới ngòi bút của tác giả, Trời và chư tiên không có một chút gì đạo mạo. Họ biểu hiện cảm xúc theo một cung cách rất đỗi bình dân: lè lưỡi, chau mày, lắng tai đứng, vỗ tay, bật cười... cứ tưởng tượng hình ảnh các đấng siêu nhiên vốn không thuộc cõi người mà có những cử chỉ điệu bộ ngộ nghĩnh như thế, độc giả không thể không cảm thấy buồn cười, không thể không phục cách kể chuyện xôm trò của tác giả.
Giả sử bị tước đi lối kể bình dân và nụ cười hóm hỉnh, các đoạn thơ trên sẽ mất đi ý vị thẩm mĩ đặc trưng, bởi sự hấp dẫn của tác phẩm văn học nói chung không hẳn nằm ở chuyện kể mà ở cách kể, giọng kể. Hơn thế, trong bài thơ này, lối kể ấy, nụ cười ấy làm nên nội dung trữ tình chính, giúp chúng ta hiểu về con người tác giả hơn bất cứ cái gì khác. Nói tóm lại, những yếu tố vừa nêu là một phần tất yếu của bài thơ, hoàn toàn xứng hợp với câu chuyện hầu trời mà tác giả đã hư cấu. Như vậy, để cảm nhận đúng cái thần của bài thơ, điều quan trọng trước hết chưa phải là nhẩm nháp từ tốn từng câu thơ một, tróc tìm ý nghĩa trong mỗi lời nói của nhân vật trữ tình, mà là việc xác định một tâm thế sẵn sàng tham dự vào cuộc chơi do tác giả đề nghị, chia sẻ tiếng cười của tác giả trên một tinh thần dân chủ.
So với yêu cầu hàm xúc của thơ xưa, Hầu Trời có vẻ quá dài. Nhưng đây là một đặc điểm chứ chưa hẳn là một nhược điểm, và như vậy, cần đánh giá nó theo tiêu chí riêng. Dài là một đòi hỏi tự nhiên đối với bài thơ giàu yếu tố tự sự như Hầu Trời. Hơn thế, nguyên tắc tôn trọng dòng chảy tự nhiên, sống động của cảm xúc cá nhân, cá thể của thơ thời đại (mà Tản Đà là người có công đầu xác lập) cho phép nhà thơ thoát ra khỏi những ràng buộc quá khắt khe về hình thức để thoải mái chứng minh cho sự hiện diện của cái tôi trong nghệ thuật! Điều đáng nói khác là quan hệ giao tiếp mới, dân chủ hơn giữa độc giả và nhà thơ không bắt buộc tác giả phải quá tiết chế trong cảm xúc, trong việc triển khai ý thơ, tứ thơ... Ngoài ra, không loại trừ khả năng bài thơ được kéo dài nhằm đáp ứng nhu cầu của báo chí phải lấp khoảng trống trong một chuyên mục nào đó, thêm nữa nhằm giúp nhà thơ tính dòng., lấy nhuận bút.
Bên cạnh độ dài khác thường, Hầu Trời còn đáng chú ý với hiện tượng chia khổ, các khổ có độ dài khác nhau; với sự xuất hiện của nhừng từ nôm na, thông tục; với ngữ điệu nói... Hầu Trời là bài thơ hay, độc đáo, có nhiều nét mới về mặt thi pháp, rất tiêu biểu cho tính chất giao thời trong nghệ thuật thơ Tản Đà. Qua bài thơ, có thể nhận ra được nhiều điều về xu hướng phát triển của thơ Việt Nam trong những năm hai mươi của thế kỉ trước.
Viết bình luận